Emerging treatments
Your Organisational Guidance
ebpracticenet urges you to prioritise the following organisational guidance:
Prévention de l’InfluenzaPublished by: Groupe de travail Développement de recommandations de première ligneLast published: 2018Preventie van influenzaPublished by: Werkgroep Ontwikkeling Richtlijnen Eerste Lijn (Worel)Last published: 2018Baloxivir marboxil
Baloxivir là thuốc kháng vi-rút đường uống mới ức chế khả năng tái tạo vi-rút cúm bằng cách ức chế endonuclease phụ thuộc cap. Thuốc đã được phê duyệt tại Nhật Bản vào tháng 2 năm 2018 để điều trị nhiễm cúm A hoặc B. Vào tháng 10 năm 2018, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt baloxavir marboxil là thuốc điều trị dưới dạng liều đơn, đường uống để điều trị cúm không biến chứng, cấp tính ở những người từ 12 tuổi trở lên đã có triệu chứng trong không quá 48 giờ. Ở thử nghiệm ngẫu nhiên giai đoạn III trên những bệnh nhân từ 12 đến 64 tuổi bị cúm không biến chứng (vào mùa năm 2016-2017), liều đơn baloxavir làm giảm thời gian trung bình để giảm triệu chứng so với giả dược (54 so với 80 giờ) và tương tự như oseltamivir. Baloxavir có liên quan đến việc giảm lượng lớn tải lượng vi-rút một ngày sau khi bắt đầu phác đồ so với cả giả dược và oseltamivir.[136]
Công nghệ không dùng kim tiêm
Công nghệ tiêm jet không dùng kim tiêm để tiêm vắc-xin cúm có thể tránh được vấn đề sợ kim tiêm và nguy cơ gây chấn thương do kim đâm.[137]
Liệu pháp kháng vi-rút kết hợp
Kết hợp 2 thuốc kháng vi-rút có tác dụng trên các khía cạnh khác nhau của vòng đời vi-rút có thể có lợi hơn so với riêng từng loại thuốc, mặc dù các lựa chọn bị giới hạn bởi số lượng nhỏ các loại thuốc kháng vi-rút.[138] Nghiên cứu ở chuột chứng minh trị liệu hiệp lực khi oseltamivir được kết hợp với amantadine,[139] hoặc với favipiravir.[140] Một nghiên cứu trong ống nghiệm cho thấy rằng liệu pháp kết hợp amantadine và oseltamivir có thể làm giảm sự xuất hiện của vi-rút cúm A kháng thuốc.[141] Tuy nhiên, cần thận trọng vì một nghiên cứu kết hợp oseltamivir-zanamivir cho thấy việc đó ít hiệu quả hơn so với dùng riêng oseltamivir.[142]
Protein hợp nhất sialidase DAS181 tái tổ hợp
Hiện đang được phát triển, thuốc này nhằm vào tế bào hô hấp vật chủ thay vì bản thân vi-rút cúm, đặc biệt là các thụ thể sialic acid được vi-rút cúm sử dụng để dính vào biểu mô đường thở.[138] DAS181 là một protein hợp nhất sialidase bao gồm lĩnh giới xúc tác sialidase của Actinomyces viscosus, hợp nhất với một trình tự neo bề mặt tế bào. Protein hợp nhất hít vào này loại bỏ các thụ thể gắn cúm trên biểu mô hô hấp. Các nghiên cứu đến nay chứng tỏ hiệu quả trong ống nghiệm chống lại cả cúm A và B,[105] và hiệu quả trong ống nghiệm và trong cơ thể chống lại vi-rút á cúm.[143]
Cyanovirin-N
Cyanovirin-N là một protein tương tác với protein kháng nguyên ngưng kết hồng cầu trên bề mặt tế bào của cả vi-rút cúm A và cúm B trong ống nghiệm.[124] Thuốc đem lại đặc tính kháng vi-rút bằng cách chặn lối vào của vi-rút,[138] nhưng việc tiếp tục phát triển bị cản trở bởi các vấn đề liên quan đến sinh miễn dịch và gây độc tế bào. Tuy nhiên, một nghiên cứu ban đầu với một dẫn xuất PEGylated cyanovirin-N mới đã cho kết quả tích cực.[144]
RNA can thiệp ngắn
Mặc dù hiện nay chỉ mới nghiên cứu ở chuột, các RNA can thiệp ngắn đặc hiệucho các khu vực bảo tồn của các gen bệnh cúm đã làm giảm tái tạo vi-rút khi được tiêm qua tĩnh mạch. Gần đây, can thiệp RNA đã được chứng minh là có tác dụng ức chế nhiễm vi-rút cúm khi kết hợp với interferon gamma.[145]
Favipiravir
Một pyrazine thay thế ức chế RNA polymerase của vi-rút.[138] Các nghiên cứu trong ống nghiệm và trên cơ thể đã cho thấy sự ức chế tái tạo virút và các hoạt động chống vi-rút kháng cả amantadines và chất ức chế neuraminidase. Favipiravir ngăn tái tạo nhiều chủng vi-rút cúm, kể cả vi-rút cúm gia cầm H7N9.[146] Ngoài ra, thuốc này có hiệu lực chống lại nhiều arena-, bunya-, flavi-, alpha-, picorna-, và noroviruses.
Viramidine
Một tiền chất của ribavirin, viramidine nhằm vào enzym tế bào IMP dehydrogenase, có liên quan đến tổng hợp RNA vi-rút.[138] Nó hoạt động chống lại các vi-rút cúm A theo mùa và H5N1,[147] và có thể tiêm tĩnh mạch, uống, hoặc phun khí.
Vắc-xin DNA.
Vắc xin DNA phòng chống ba chủng cúm đã được phát triển với ba plasmid trình diện trên kháng nguyên ngưng kết hồng cầu từ các chủng vi-rút cúm theo mùa khác nhau. Thuốc chứng tỏ khả năng bảo vệ chống lại bệnh cúm và có hồ sơ về an toàn tốt.[148] Trong một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I, vắc-xin H5 DNA ngừa chủng đơn có tá dược đã được dung nạp tốt và kích tỷ lệ phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu tương tự như các vắc-xin H5 nguồn gốc protein khử hoạt tính.[149] Kết quả cho thấy rằng vắc-xin DNA có tá dược với việc sản xuất vắc-xin nhanh chóng có thể hữu ích cho việc kiểm soát dịch.
VIS410
VIS410 là kháng thể đơn dòng được thiết kế để nhắm vào tất cả các chủng vi-rút đã biết của cúm A. Kháng thể này kháng lại epitope đặc hiệu trên kháng nguyên ngưng kết hồng cầu, một protein bề mặt được sử dụng để liên kết và xâm nhập tế bào, và được thiết kế để ngừng chu kỳ tái tạo vi-rút cúm. Kháng thể này đang được phát triển để điều trị cho bệnh nhân nhập viện nhiễm cúm A và hiện đang được thử nghiệm giai đoạn 2.
Use of this content is subject to our disclaimer